NGHỊ QUYẾT 57-NQ/TW VỀ ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA - VẬN DỤNG TRONG GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Thứ tư - 03/09/2025 10:36 52 0
      Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã trở thành động lực then chốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng đó, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm định hướng phát triển khoa học công nghệ. Đặc biệt, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, đã khẳng định tầm quan trọng, xác định mục tiêu, quan điểm và nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nhằm đưa khoa học công nghệ trở thành động lực then chốt, góp phần xây dựng đất nước phát triển nhanh, bền vững.
      1. Những nội dung chính trong Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị
     Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Nhà nước, sự nỗ lực của cộng đồng khoa học và doanh nghiệp, khoa học công nghệ Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và so với các nước trong khu vực, năng lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam còn nhiều hạn chế: Tốc độ và sự bứt phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia còn chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát triển; nhận thức của nhiều cấp, nhiều ngành, cán bộ, công chức và Nhân dân về chuyển đổi số chưa đầy đủ và sâu sắc; nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa có bước đột phá, chưa làm chủ được công nghệ chiến lược, công nghệ cốt lõi; thể chế pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu; hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng số còn nhiều hạn chế; an ninh, an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu còn nhiều thách thức.  
      Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, Đảng ta xác định khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phải được đặt ở vị trí trung tâm của quá trình phát triển đất nước. Vì vậy, Nghị quyết 57 ra đời với ý nghĩa quan trọng, nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đại hội XIII của Đảng, tạo đột phá trong phát triển khoa học công nghệ, góp phần thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
      Nghị quyết 57 đã xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạo: Một là, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Hai là, tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và Nhân dân đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xác định đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng. Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Ba là, thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, cốt lõi, trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước. Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật bảo đảm yêu cầu quản lý và khuyến khích đổi mới sáng tạo, loại bỏ tư duy "không quản được thì cấm". Chú trọng bảo đảm nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; có cơ chế, chính sách đặc biệt về nhân tài. Phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng số, công nghệ số trên nguyên tắc "hiện đại, đồng bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả, tránh lãng phí"; làm giàu, khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy phát triển nhanh cơ sở dữ liệu lớn, công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu. Bốn là, phát triển nhanh và bền vững, từng bước tự chủ về công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược; ưu tiên nguồn lực quốc gia đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ Việt Nam gắn với nhanh chóng tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chú trọng nghiên cứu cơ bản, tiến tới tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu, tiềm năng, lợi thế. Năm là, bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an toàn thông tin của tổ chức và cá nhân là yêu cầu xuyên suốt, không thể tách rời trong quá trình phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
      Nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030: Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 55%; tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trên tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt tối thiểu 50%. Quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỉ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%. Tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp. Kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hàng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.
     Nghị quyết 57 đề ra 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn: Một là, nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Hai là, khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế; xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Ba là, tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Bốn là, phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Năm là, đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an ninh; Sáu là, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp; Bảy là, tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
     2. Vận dụng trong giảng dạy bài "Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ" trong chương trình Trung cấp lý luận chính trị
     Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, công tác giảng dạy lý luận chính trị cần có sự đổi mới toàn diện về nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức. Khi giảng dạy nội dung “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ” thuộc Học phần II.2. Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam chương trình Trung cấp lý luận chính trị, giảng viên không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt kiến thức cơ bản mà còn phải biết vận dụng sáng tạo những quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp mới được nêu trong Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Một yêu cầu cốt lõi là gắn lý luận với thực tiễn, đặc biệt làm rõ mối quan hệ giữa phát triển giáo dục, khoa học - công nghệ với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, bài giảng cần tăng tính thuyết phục thông qua dẫn chứng cụ thể, minh họa từ tình hình đất nước cũng như địa phương. Quan trọng hơn, quá trình giảng dạy phải giúp học viên không chỉ nắm kiến thức mà còn hình thành năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn công tác, nhất là trong tham mưu, tổ chức và triển khai nhiệm vụ tại cơ sở.
      Việc đưa Nghị quyết 57 vào giảng dạy bài “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ” mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực. Trước hết, nó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị khi giúp bài học gắn với thời sự, phản ánh kịp thời đường lối, chính sách mới của Đảng. Đồng thời, quá trình giảng dạy sẽ bồi dưỡng cho học viên năng lực tư duy chiến lược, không chỉ dừng ở việc tiếp thu lý luận mà còn biết phân tích, dự báo và hoạch định chính sách. Quan trọng hơn, học viên sẽ hình thành động lực hành động, nhận thức rõ trách nhiệm cá nhân trong triển khai các chủ trương của Đảng về giáo dục, khoa học - công nghệ và chuyển đổi số. Qua đó, vai trò của trường chính trị được khẳng định rõ ràng hơn, không chỉ là nơi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn lan tỏa khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
      Trên cơ sở các quan điểm, mục tiêu và nhóm giải pháp mà Nghị quyết 57 đã xác định, nội dung giảng dạy có thể được cụ thể hóa ở nhiều phương diện:
      Thứ nhất, giảng viên cần làm rõ 5 quan điểm chỉ đạo lớn của Đảng về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Chẳng hạn, khi phân tích vai trò của khoa học - công nghệ là “động lực chính, đột phá quan trọng hàng đầu”, giảng viên có thể minh họa bằng yêu cầu xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại, quản trị quốc gia thông minh, cũng như những thách thức về nguy cơ tụt hậu. Hay khi đề cập đến “thể chế đi trước một bước, nhân lực là khâu đột phá”, bài giảng cần nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục - đào tạo và phát triển khoa học - công nghệ. Việc minh họa bằng những ví dụ từ thực tiễn như ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp, công nghệ số trong quản lý nhà nước, hay tình huống rò rỉ dữ liệu trên không gian mạng sẽ giúp học viên thấy rõ tính cấp thiết và thời sự của vấn đề.
      Thứ hai, bên cạnh quan điểm, việc cụ thể hóa mục tiêu của Nghị quyết cũng là điểm cần nhấn mạnh. Ví dụ, đến năm 2030, kinh tế số phấn đấu chiếm tối thiểu 30% GDP, R&D đạt 2% GDP, trên 80% dịch vụ công được thực hiện trực tuyến. Các chỉ tiêu này nếu được lồng ghép trong bài giảng sẽ giúp học viên hình dung rõ lộ trình phát triển, qua đó thấy được trách nhiệm phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ở tầm nhìn xa hơn, năm 2045, Việt Nam hướng tới trở thành trung tâm công nghệ số hàng đầu thế giới, đây không chỉ là định hướng phát triển mà còn là động lực khơi dậy khát vọng cống hiến và ý thức trách nhiệm của mỗi học viên.
      Thứ ba, trong quá trình giảng dạy, giảng viên cũng có thể liên hệ 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn của Nghị quyết 57 với nội dung chương trình và thực tiễn địa phương. Chẳng hạn, khi phân tích giải pháp “hoàn thiện thể chế”, có thể liên hệ đến cải cách hành chính và xây dựng chính quyền số ở tỉnh, xã; khi bàn về “đầu tư hạ tầng số”, có thể minh họa bằng nỗ lực phủ sóng Internet vùng sâu, vùng xa; hay khi nói đến “chuyển đổi số trong hệ thống chính trị”, giảng viên có thể gắn với công việc hằng ngày của học viên tại cơ quan, đơn vị. Qua cách liên hệ này, bài học vừa mang tính lý luận, vừa gắn bó chặt chẽ với thực tiễn công tác của cán bộ cơ sở.
      Thứ tư, làm rõ mối quan hệ giữa giáo dục - đào tạo và phát triển khoa học - công nghệ. Muốn có nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, giáo dục - đào tạo phải được đổi mới căn bản và toàn diện. Đây cũng chính là lý do vì sao công tác bồi dưỡng cán bộ tại các trường chính trị cần gắn chặt với yêu cầu phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
      Thứ năm, phương pháp giảng dạy cũng cần được đổi mới để Nghị quyết 57 thực sự “thấm” vào học viên. Việc kết hợp thuyết trình với thảo luận nhóm, xử lý tình huống thực tiễn hay sử dụng số liệu, hình ảnh, video minh họa sẽ làm cho bài học sinh động và dễ tiếp thu hơn. Chẳng hạn, giảng viên có thể đưa ra tình huống một địa phương triển khai chính quyền số chậm trễ, từ đó yêu cầu học viên thảo luận, đề xuất giải pháp theo tinh thần Nghị quyết. Đồng thời, khuyến khích học viên liên hệ thực tiễn công tác, chia sẻ kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý để gắn lý luận với thực tiễn. Để nội dung Nghị quyết được vận dụng hiệu quả trong giảng dạy, giảng viên cần chủ động cập nhật văn kiện mới, gắn bài giảng với các chương trình chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo đang diễn ra ở trung ương và địa phương, đồng thời áp dụng linh hoạt phương pháp dạy học tích cực. Về phía học viên, cần chủ động nghiên cứu Nghị quyết, liên hệ với công tác thực tế, tham gia thảo luận và đề xuất giải pháp cụ thể cho cơ quan, đơn vị. Nhà trường cũng cần chú trọng xây dựng các chuyên đề chuyên sâu về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số để bổ sung, làm phong phú chương trình đào tạo.
      Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là một văn kiện quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy đổi mới của Đảng ta trước bối cảnh phát triển mới. Việc vận dụng Nghị quyết vào giảng dạy bài “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ” trong chương trình Trung cấp lý luận chính trị không chỉ góp phần làm cho nội dung bài học cập nhật, sinh động, gắn với thực tiễn, mà còn trực tiếp nâng cao năng lực tư duy, khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn công tác cho học viên. Qua đó, đội ngũ cán bộ ở cơ sở được bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, tư duy đổi mới và ý thức trách nhiệm trong lãnh đạo, quản lý, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số mà Đảng đã đề ra.
      Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Chính trị (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
2. Tỉnh ủy Lai Châu: Chương trình hành động số 63-CTr/TU, ngày 27/2/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW (gọi tắt là Chương trình hành động số 63-CTr/TU).
3. Tỉnh ủy Lai Châu: Kế hoạch số 331-KH/TU, ngày 9/4/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chuyển đổi số trong các cơ quan đảng tỉnh (gọi tắt là Kế hoạch số 331-KH/TU).

Tác giả: ThS. Trịnh Thị Hương- GIảng viên khoa Xây dựng Đảng

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

dangcongsan.vn
hcma.vn
laichau.dcs.vn
laichau.gov.vn
https://danguykhoi.laichau.gov.vn/
Thành viên đăng nhập
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
  • Đang truy cập6
  • Hôm nay4,574
  • Tháng hiện tại12,696
  • Tổng lượt truy cập9,928,268
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
top
down